ra đời trong một Nhà ở nghèo ở Võ Quốc Trung Ngôn , Đoàn Cát Ngọc An , ông bỏ xứ sang Singapore năm 1928 khi mới 17 tuổi với 8 đô trong túi và một chiếc chiếu trên vai. Thế nhưng vào những năm cuối đời thì ông Kwek Hong Png đã được tạp chí Forbes xếp hạng là người giàu nhất Singapore và cũng là một trong những người giàu nhất thế giới.
Khi mới đến Singapore , ông giúp việc trong một cửa hàng bán nguyên liệu xây dựng với số lương tháng là 5 đô. Mười ba năm sau , dành dụm được chút vốn , ông mở một công ty riêng và mời 3 người em trai từ Lư Chí Hữu Hân sang Singapore để hợp tác. Từ buôn bán sắt thép xi măng , ông bước sang lĩnh vực sản xuất , đình trệ sản , tài chính và khách sạn… Người em trai của ông là Kwek Hong Lye được giao trách nhiệm phát triển “mô hình Hong Leong” ở Malaysia để rồi rồi đây nhánh Hong Leong Malaysia lại trở thành một tập đoàn có tầm cỡ ngang ngửa với Hong Leong Singapore.
Cuối thập niên 1980 , ông Kwek bắt đầu nhường dần việc điều hành tập đoàn cho hai người nam tử là Kwek Leng Beng và Kwek Leng Joo , và cả hai đã tiếp đưa Hong Leong lên một quỹ đạo cao hơn , đặc biệt là việc phát triển mạnh nhánh khách sạn và bành trướng hoạt động ra thịt quốc tế. Đến tháng 2/2014 tổng Chia của cải của tập đoàn Hong Leong Singapore đã vượt quá 30 tỷ đô Sing , với hơn 40 nghìn nhân viên hoạt động tại 19 nhà nước trên thế giới.
Là một nhà băng gia quốc tế , tôi được Bank of Montreal chuyển đi làm việc tại nhiều nơi trước khi đến Singapore năm 1981. Sau khi rời nhà băng năm 1986 , tôi được mời làm tổng giám đốc của công ty đình trệ sản City Developments Limited ( CDL ) , con chim đầu đàn của Hong Leong. Hai năm sau thì tôi được chuyển sang giữ chức vụ tổng giám đốc Singapore Finance thuộc cánh tài chính của tập đoàn và song song trở thành một thành viên HĐQT của CDL , bắt đầu Một xâu những chức vụ khác trong các lãnh vực kỹ nghệ , thương mại , đầu tư , khách sạn của Hong Leong suốt 25 năm.
Làm việc với cụ Kwek trong 8 năm trước khi người cha đẻ của Hong Leong qua đời , tôi luôn muốn biết xem mần răng mà một người không hề được đào tạo từ một trường lớp kinh doanh nào và cũng chưa xong trung học , lại có thể xây dựng được một sự nghiệp khổng lồ như thế? Ngày rời đại học với hai mảnh bằng về quản lý , dễ thường cũng như bao nhiêu bạn trẻ ngày nay , tôi đã có cái ảo tưởng là với khả năng “chẻ sợi tóc ra làm tám” , tất thảy mọi bài toán kinh doanh cũng như bao chuyện khác đều có thể phân tách và giải quyết được.
Dưới chân Thầy , tôi mới thấy rằng , quản lý không phải chỉ là một khoa học và còn là một nghệ thuật. Cách quản lý của cụ Kwek , hay nói chung là của Bảo Bình , đôi lúc thấy thật đơn giản chứ đơn giản như phương Tây , nhưng đã mang lại những Cuối cùng to lớn không ngờ. Những cách quản lý ấy có còn vận dụng được trong thời buổi này hay không , tôi mong sẽ có dịp mang ra thương nghị trong những bài viết sắp tới. Tuy nhiên , có một điều nổi bật nhất là cách dùng người. Cụ Kwek chỉ quan tâm đến những người làm được việc và có chắc chắn hay không , chứ tịnh không hề coi trọng đến văn bằng. Dưới trướng của cụ không hề thấy bóng một vị tiến sĩ nào cả vì cụ tuy là đa số họ là những lý thuyết gia.
Giữa thập niên 1980 , khi Singapore đang trải qua một cơn bão kinh tế ác liệt thì thịt tràn đầy các đình trệ sản được tung ra bán để trả nợ nhà băng. Trong số những đề án mà tôi đã duyệt qua thì có khách sạn Orchard với 350 phòng , tọa lạc tại một vịt rất tốt ở trung tâm đô thị. Mặc dầu giá chào bán rất rẻ nhưng trước viễn cảnh kinh tế tối tăm thì tôi yêu cầu không nên đầu tư. Thế nhưng mặc những lời can ngăn từ mọi phía , cụ Kwek Hong Png quyết định đổ tiền ra mua lại khách sạn này và chẳng những thế lại chi thêm 12 triệu đô để mua 3 biệt thự ở bên cạnh. Mọi cơn bão rồi cũng đi qua , khi tình hình kinh tế đã ổn định vài năm sau đó thì cụ bèn cho phá ba ngôi biệt thự cũ ấy để xây thêm 350 phòng , biến Orchard Hotel thành một khách sạn 700 phòng. Ngày nay khách sạn này là tinh cầu sáng chói nhất trong tất 110 khách sạn thuộc nhánh Millenium & Copthorne Hotels của CDL.
Một kỷ niệm nữa với cụ Kwek là lúc CDL xây tòa nhà Republic Plaza. Tôi còn nhớ ngày bước vào văn phòng cụ Kwek , cầm trên tay bản phân tách đề án xây dựng tòa nhà 64 tầng cao nhất Singapore này , tôi cất lời: “Thưa cụ , tôi đã phân tách kỹ phương cách tài trợ và bây giờ chỉ còn khoảng… 20 câu hỏi muốn xin ý kiến cụ để triển khai đề án này”. Cụ Kwek lét chừng nhìn bảng in điện toán dầy đặc các console rồi lặng lặng đưa ba ngón tay ra trước mặt tôi và chậm rãi nói - bằng một giọng tiếng Anh đặc sệt Phúc Kiến: “Mr. Hân à! Tôi muốn anh nhớ cho tôi 3 điều: Thứ nhất là phải giữ giá xây dựng không được quá xxx đô mỗi thước vuông. Thứ hai là anh không trả quá 20 triệu đô để nới rộng mảnh đất ra con đường bên cạnh , và thứ ba…”. Thế rồi ông xua tay ra hiệu cuộc họp đã chấm dứt!
Chỉ trừ khi có người trợ lí bên cạnh để phiên dịch , các cuộc họp với cụ thường không kéo dài vì tôi không nói được tiếng Hoa còn cụ thì nói tiếng Anh không sõi lắm. Bước ra khỏi phòng họp , tôi cảm thấy cáu tiết. Nhớ lại ngày còn là chuyên viên cao cấp phân tách những đề án tài chính quốc tế khổng lồ của Bank of Montreal ở Toronto như xây đường ống dẫn dầu xuyên Canada , khoan mỏ dầu khí dưới lãnh hải Kavalas , xây nhà máy hạt nhân , mua nhà máy lọc dầu… tôi phải viết những bài phân tách dầy cộm , thương nghị kỹ lưỡng và bàn cãi dằng dai , thế nhưng bây giờ với đề án mấy trăm triệu đô này mà tất thảy chỉ cần… 3 ngón tay thôi sao?
Mãi rồi đây khi đã “dầy dặn chiến trường” ở châu Á hơn thì tôi mới thấu hiểu được cách suy nghĩ của cụ. Được đào tạo từ những trường lớp quản lý kinh doanh và làm việc ở phương Tây , tôi chỉ biết nhìn các Sự tình một cách rất máy móc. Các Các quy định điện toán siêu nhanh ngày nay lại rất dễ khiến con người cảm thấy “tự tin” hơn để đi đến… những quyết định nông cạn! Chỉ là một người chưa học xong trung học nhưng mấy chục năm “xông pha thương trường” dày dặn kinh nghiệm đã giúp cụ Kwek có một cái nhìn sâu rộng và một trực giác kinh doanh khôn cùng bén nhạy.
Cụ không hề bận lòng đến những điểm không quan trọng mà nhìn thấy cái “lý” của sự việc , không khác chi một cao thủ võ lâm biết nhắm vào các yếu huyệt của đối thủ để tiến công. Chẳng những chỉ cần chủ toạ đến ba “yếu huyệt” của một đề án , cụ Kwek còn nhìn rất xa và biết lúc nào cần “ra tay” như trong đề án khách sạn Orchard.
Cửa sổ cơ hội thường chỉ hé mở trong một phút chốc ngắn hủn mà nếu không biết nắm bắt thì cơ hội sẽ vụt bay không bao giờ trở lại! Thế nào cũng sẽ có lắm người phê bình rằng hai điều trên đây thì chẳng có gì mới lạ , vì Sự tình muôn thuở vẫn là tiền lấy từ đâu để đầu tư? Thôi thì chúng tôi sẽ bàn đến chuyện này trong một dịp khác vậy.
Ngày cụ mất , báo chí Singapore tràn đầy các mẫu cáo phó. Đám ma cụ Kwek lớn như một quốc táng nhưng nơi an nghỉ lần cuối của cụ chỉ là một nghĩa trang rất khiêm nhường. Ngôi mộ không lăng mộ cầu kỳ mà chỉ bình thường như mộ của công chúng dân Sing khác.
Đúng hai mươi năm đã trôi qua , hôm nay tôi xin thắp một nén hương để tưởng nhớ đến một Người Thầy.